Việc thay đổi
tầm
quan trọng
tương
đối
của
bốn
loại
yếu
tố
đầu
vào (lao động trực
tiếp,
thiết
bị,
nguyên liệu và hệ thống)
cần đến
những
thay
đổi
trong
chương
trình nâng cao năng suất.
Tầm quan trọng ngày càng tăng của việc đầu tư vốn
Các thế
hệ
những
người
quản
lý sản
xuất
đã
được
đào
tạo
theo quan niệm cho rằng
tăng
năng
suất
có nghĩa
là tăng
năng
suất
của
lao động
trực
tiếp.
Ngày nay, kết quả
cho thấy
là ý nghĩa
của
chức
năng
sản
xuất
nằm
ở
nơi
khác. Nỗ
lực
tăng
năng
suất
giờ
đây
hướng
trọng
tâm vào việc chống
lãng phí trong việc sử
dụng
thiết
bị
và nguyên liệu.
Bỉ là một
nước
có mức
giờ
công lao động theo tuần
và theo đầu
người
thấp
nhất
thế
giới.
Nhưng
họ
cũng
là một
trong những
nền
kinh tế
có năng
suất
cao nhất
với
tỷ
lệ
sử
dụng
thiết
bị
rất
cao. Điều
đó
chủ
yếu
lệ
thuộc
vào tính linh hoạt của
lực
lượng
lao động
trực
tiếp.
Nó cho thấy rằng
năng
suất
lao động
cao hơn
là xuất
phát từ
việc
có được
một
khối
lượng
lớn
những
đồng
Franc (Bỉ)
để
giảm
chi phí nhân lực. Đó
cũng
chính là nguyên nhân giải thích tại
sao công nghiệp của
Bỉ
lại
có khả
năng
giảm
được
chi phí đầu
tư
vốn
của
họ.
Hiện tượng
này không tồn tại
ở
cấp
vĩ
mô. Các công ty nhỏ thường
có tính linh hoạt cao do lực
lượng
lao động
dễ
điều
chỉnh
cho phép duy trì mức độ
hoạt
động
của
máy móc thiết bị luôn ổn định.
Salmon, một công ty của
Pháp chuyên sản
xuất
máy bơm
và phụ
kiện
đường
cung cấp
nước
với
700 công nhân đã đưa
vào áp dụng
một
hệ
thống
công việc
có thể
tính theo tuần. Ở
hầu
hết
bộ
phận,
tuần
làm việc
dao động
trong phạm
vi 33 đến
43 giờ,
tùy thuộc
nhu cầu.
Vì vậy,
thay vì cố định thời
gian một
tuần
làm việc,
đôi
khi công nhân rất nhàn rỗi
và đôi
khi lại
cần
có sự
trợ
giúp tạm
thời
khác, tính linh hoạt đã
được
thiết
lập
ngay trong nội bộ
lực
lượng
lao động
của
công ty. Một số
người
làm việc
theo hệ
thống
hai ca, mỗi ca 6 giờ,
một
số
khác làm việc theo hệ
thống
bốn
ca hoặc
năm
ca. Kết
quả
là thiết
bị
được
tận
dụng
tối
đa
và được
sử
dụng
ở
mức
155 giờ
mỗi
tuần.
Thời
gian còn lại không phải
là thời
gian ngừng
máy mà là thời gian dành cho việc
bảo
dưỡng.
Những gì đúng
với
thiết
bị
thì cũng
đúng
với
nguyên liệu. Trong rất
nhiều
dây chuyền
sản
xuất,
nguyên liệu và cấu
kiện
chiếm
tới
80% chi phí sản xuất.
Việc
giảm
lãng phí bằng cách nâng cao chất
lượng
và cải
thiện
hệ
thống
kiểm
soát bằng
thống
kê có thể
có một
ảnh
hưởng
đáng
kể
đối
với
năng
suất
dây chuyền.
Theo kết
quả
khảo
sát của
McKinsey and Co. năm 1989, các giám đốc
điều
hành của
230 công ty châu Âu hàng đầu đã
cho rằng
tổng
số
doanh thu của họ
có thể
tăng
lên trung bình 17% và chi phí khả
biến
có thể
giảm
xuống
35% nếu
hệ
thống
quản
lý chất
lượng
đồng
bộ
được
triển
khai thực
sự.
Nguồn lực mới: thông tin
Không ai có thể
phủ
nhận
việc
thông tin đóng vai trò quan trọng
trong quản
lý sản
xuất.
Thông tin thị trường
luôn giúp cho việc xác định
năng
lực
sản
xuất
và điều
hành việc
thực
hiện
các kế
hoạch.
Số
liệu
về
quy trình công nghệ có thể góp phần
giúp cải
thiện
việc
tổ
chức
quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, xu thế hiện
nay đã
thể
hiện
một
sự
thay đổi
rõ rệt,
trong đó,
thông tin được coi là một
nguồn
lực
riêng biệt.
Để đáp ứng
kịp
thời
với
những
thay
đổi
về
điều
kiện
hoạt động
của
thị
trường
và để
đáp
ứng
tốt
hơn
những
yêu cầu
của
khách hàng, quá trình sản xuất
đã
đưa
yếu
tố
thông
tin vào tận từng
phân xưởng.
Trong một
thế
giới
gồm
các hệ
thống
cung ứng
linh hoạt,
kịp
thời,
các bộ
lọc
chắn
giữa
người
sản
xuất
và người
tiêu dùng không thể tồn
tại
được
nữa.
Những
bộ
phận
chào hàng, những người
nghiên cứu
thị
trường,
những
người
lập
kế
hoạch
thị
trường,
những
người
lập
kế
hoạch
sản
xuất
có vai trò rất quan trọng
nhưng
cũng
chính họ
thường
hay làm méo mó thông tin giữa người
sử
dụng
và người
sản
xuất.
Mối
quan hệ
cơ
bản
này cần
được
bảo
vệ
một
cách thận
trọng để tránh
những
sai lệch
có thể
phát
sinh từ
những khâu
trung gian khác.
Thông tin cũng
được
tổng
hợp
trực
tiếp
từ
quá trình sản xuất.
Các số
liệu
về
công nghệ,
thị
trường,
người
cung ứng
và môi trường đã
có những
đóng
góp vào các quyết định
chính sách có tính cạnh tranh. Thông tin đã
trở
nên quan trọng hơn,
không còn là yếu tố
hỗ
trợ
sản
xuất
đơn
thuần.
Nó đã
trở
thành một
nguồn
lực
đầy
đủ
ý
nghĩa
của
khái niệm
này. Cắt
bỏ
việc
cung cấp
thông tin sẽ làm nhiều
doanh
nghiệp
rơi
vào tình trạng chuệch choạc,
mất
phương
hướng.
Các hãng sản
xuất
thời
trang hay các mạng lưới
phân phối
kiểu
như
hãng Marks & Spencer của Anh hiểu
rất
rõ rằng
mọi
sự
gián đoạn
về
thông tin đều có nghĩa
là khó khăn sẽ
nảy
sinh đối
với
việc
sản
xuất.
Lĩnh
vực
này thường
phải
tổ
chức
xây dựng
hai bộ
sưu
tập
mẫu
thời
trang hàng năm nhưng
giờ
đây,
họ
đã
phải
cho ra mắt
ít nhất
bảy
bộ
sưu
tập.
Các bộ
mùa hè và mùa đông đã
được
mở
rộng
thành bốn
bộ
theo từng
mùa, thêm một bộ
cho lễ
Giáng sinh, hai bộ cho thể
thao, một
bộ
cho trời
nắng,
một
bộ
cho mùa tuyết. Như
vậy,
công ty như kiểu
Marks & Spencer chỉ có 35 ngày để đánh
giá, thiết
kế,
sản
xuất
và tung ra thị trường
cho mỗi
bộ
sưu
tập
thời
trang. Điều
đó
có nghĩa
là nếu
họ
chậm
trễ
một
ngày trong việc đáp
ứng
với
những
khuynh hướng
mốt
mới
nhất,
họ
sẽ
dễ
dàng mất
đi
lợi
thế
cạnh
tranh của
mình. Tính kịp thời
về
thời
gian trong ngành công nghiệp này là yếu
tố
quyết
định.
Và tất
cả
những
điều
đó
tùy thuộc
vào các nguồn thông tin thường
xuyên và được cập
nhật
từng
giây phút.
Thông tin sử
dụng
được
xem như
một
nguồn
lực
tự
nhiên. Vì không cần đến
một
khoản
chi phí nào cho nó, dường như đang
có một
thứ
gì đó
đang
tự
do “chảy”
xung quanh chúng ta. Tuy nhiên, một
khi thông tin đã trở
thành một
nguồn
lực
sản
xuất,
nó cần
được
nhìn nhận
theo một
cách thức
khác đi.
Giống
như
mọi
nguồn
lực
khác, nhân lực chẳng
hạn,
họ
được
lựa
chọn,
đào
tạo
và đề
bạt,
nguồn
thông tin phải được
quản
lý chặt
chẽ.
Rất
nhiều
câu hỏi
cần
có những
câu trả
lời
chính xác, ví dụ như:
• Thông
tin cho sản xuất
được
thu thập
bằng
cách nào và mức độ
thường xuyên ra sao?
• Nó được lưu trữ như thế nào?
• Nó được hoàn thiện như thế nào?
• Các công ty học tập được gì từ những thông tin hiện nay?
• Thông
tin được
xây dựng
để
mô tả
quá trình, phản ứng
của
thị
trường,
màng lưới
những
người
cung ứng
và những
hiểu
biết
về
tình trạng
cạnh
tranh cơ
bản
khác như
thế
nào?
Các nguồn
lực
sản
xuất
không chỉ
bao gồm
yếu
tố
nhân lực.
Mọi
đầu
vào cần
được đánh
giá và
được
tính vào trong quá trình sản xuất
và trong công tác quản lý.
Những người cung ứng là những nguồn lực của công ty
Những người
cung ứng
cũng
có thể
có ảnh
hưởng
làm thay đổi quan điểm
của
chúng ta về nguồn
lực.
Trước
đây,
các định
nghĩa
về
năng
suất
chỉ
tính đến
những
nguồn
lực
do công ty sở hữu
và kiểm
soát. Các công ty đánh giá năng
suất
của
lao động
trực
tiếp,
của
thiết
bị
hoặc
của
việc
sử
dụng
nguyên vật
liệu.
Nhưng
như
vậy,
sẽ
khó tối
ưu
hóa được
toàn bộ
quá trình.
Các nhà máy không hoạt
động
trong môi trường chân không. Chúng được
tập
hợp
bởi
những
chuỗi
giá trị
tạo
nên giá trị sử
dụng
cuối
cùng. Để
tạo
ra giá trị này một
cách có kết quả
nhất,
các công ty không chỉ cần
thúc đẩy
năng
suất
của
các cơ
sở
chính của
mình mà còn cần góp phần
vào việc
tạo
ra năng
suất
cho toàn bộ chuỗi
giá trị.
Điều
đó
có nghĩa
là cần
xây dựng
mối
quan hệ
hợp
tác với
những
người
cung ứng
và những
người
phân phối
sản
phẩm.
Những
hoạt
động
đầu
tư
vào quá trình công nghệ
và cải
tiến
việc
sử
dụng
nguyên vật
liệu
cần
được
thực
hiện
trong mối
liên hệ
với
những
đối
tác này.
Sản xuất
một
cuốn
sách chẳng
hạn,
gồm
15% chi phí sản xuất,
35% chi phí vật tư
biên tập
và quyền
tác giả,
50% cho chi phí phát hành. Chi phí sản
xuất
bao gồm
giấy,
mực
in, ... (50 %), đóng (26 %) và in (19
%). Tăng
năng
suất
bằng
cách tập
trung vào việc giảm
3% chi phí in sẽ không mang lại
kết
quả
đáng
kể.
Năng
suất
chỉ
có thể
được
tạo
nên trên toàn bộ chuỗi
bao gồm
tác giả,
biên tập,
nhà in và người cung ứng
vật
tư
in ... kết
hợp
lại
để
tạo
ra một
giá trị
khách hàng cao hơn.
No comments:
Post a Comment