1/ Lực lượng sản
xuất:
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu
tố vật chất và kỹ thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là
trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người chinh phục tự nhiên bằng
các sức mạnh hiện thực của mình sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái
quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện
trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực
thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo nên của cải cho xã hội đảm bảo
sự phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng
lao động và tư liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao động tác động
vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được
hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao. Còn trong tư liệu lao động tức
là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng
lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy
khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hoá được tự động hoá thì vai
trò của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là
yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn
thiện không ngừng của nó đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu
sản xuất. Trình độ phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục
tự nhiên của con người. Có thể coi yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản
xuất chính là con người. Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới mức
trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời
sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất
riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đem lại thay đổi
về chất cho lực lượng sản xuất.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời
đại của sản xuất nó hoàn toàn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện
đại.
2/ Khái niệm về
quan hệ sản xuất:
Để tiến hành quá trình sản xuất, nhất định con người
phải có mối quan hệ với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản
xuất. Nói cách khác quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản
xuất.
Trong đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay
không cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt
động sản xuất cũng như kết quả lao động những quan hệ sản xuất này mang tính tất
yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một
cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập
các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu,
khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan
không phụ thuộc vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ
mang tính vật chất của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của
lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
- Quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu. trong hệ thống các quan hệ sản
xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các
quan hệ xã hội khác.
- Quan
hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan hệ sản
xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết
định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược
lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng
tiêu cực đến kinh tế xã hội.
- Quan
hệ phân phối sản xuất sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ với nhau cùng mục tiêu
chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không
ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao phúc lợi cho người
lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ sản
xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân
phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó có khả
năng kìm hãm sản xuất kìm hãm sự phát triển của xã hội
Nếu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất
định thì tính chất sở hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt
khác trong mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị
bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải biến
chúng để
chẳng những chúng không đối lập mà phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển
của kinh tế xã hội mới.
No comments:
Post a Comment